Ấn Quang đại sư đưa Phổ Hiền hạnh nguyện vào pháp tu niệm Phật vì theo ngài, không tu hạnh Phổ Hiền thì không làm được công đức và sẽ không có điều kiện vãng sanh. Ngài chủ trương có ba điều kiện vãng sanh.
Đaị lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thế danh Lê Đình Nhàn, sinh ngày 19 tháng 9 năm 1920 (tức ngày 8 tháng 8 năm Canh Thân) taị làng Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, Tỉnh Bình Định, trong một gia đình tin Phật nề nếp nho phong.
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên… Thế danh của Đức Đại Lão Hòa Thượng là Diệp Trương Thuần, quê quán làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay là thôn Xuân An, xã Triệu Thượng, quận Triệu Phong). Ngài xuất thân trong một gia đình nề nếp nho giáo, nhưng lại quy ngưỡng một cách thuần thành về Phật đạo. Thân phụ của ngài là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có Pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn; đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được Pháp hiệu là Phước Điền; khai lập chùa Long An Quảng Trị, và kế thế trụ trì chùa Sắc Tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu mất sớm từ khi ngài vừa lên 9 tuổi.
Trên phương tiện tôn vinh và nhiệm mệnh thực tế, chức vụ TĂNG THỐNG có từ đời Vua Đinh Tiên Hoàng (theo tài liệu; Con người Bồ Tát, tạp chí Hải Triều Âm số 4-5, của Thạch Trung Giả). Sau khi khai đạo cho Vua, Khuông Việt thiền sư đã nghiễm nhiên trở thành vị TĂNG THỐNG đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam, do Vua Đinh Tiên Hoàng sắc phong. Năm tháng trải dài trên mười thế kỷ, chức vụ đó, có khi được hoán vị thành hình, sự suy tôn TĂNG THỐNG được bắt đầu phục hồi. Đặc biệt trong lúc này, việc tấn phong không do Triều đình hay Chính quyền mà do đại diện của toàn thể TĂNG NI tín đồ Phật Giáo suy tôn. Lúc này, vị đệ nhất Tăng Thống của Giáo hội là Đức cố Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT. Kế đến là Đức Đệ nhị TĂNG THỐNG Đại lão Hòa Thượng THÍCH GIÁC NHIÊN, mà hôm nay, chúng ta đang ôn lại quảng đời của Ngài. Ngôi vị đó, kết tinh công hạnh Phụng Đạo Cứu Đời trong dòng truyền thừa Chánh pháp.
Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
Tăng-già là đoàn thể xuất gia tu học thanh tịnh và hòa hợp. Nên nhớ nghĩ về Tăng-già với những phẩm chất cao thượng sẽ khiến cho tâm được tăng thượng, hiện pháp lạc trú.
Thông tin từ Văn phòng Trung ương GHPGVN gửi đến báo Giác Ngộ cho biết Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự vừa ký ban hành Tổ chức Đại lễ tưởng niệm lần thứ 714 ngày Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết-bàn.
Đức vua Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh năm Mậu Ngọ – 1258 vào ngày 11 tháng 11 âm lịch. Ngài là con trưởng của Đức Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Sử sách ghi lại rằng khi Ngài mới sinh ra đã có dung mạo của bậc thánh nhân, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, sắc thái như vàng ròng, nên được vua cha đặt cho tên hiệu là Phật Kim