PHẬT GIÁO TỈNH QUẢNG NGÃI - Sáng ngày 10/02/2023 (nhằm 20 tháng giêng năm Quý Mão), tại Tổ Đình Từ Quang - phường Nghĩa lộ,Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi. Môn đồ đệ tử thành kính trang nghiêm tổ chức Lễ tưởng niệm huý nhật lần thứ 20 cố Đại lão Hoà Thượng Thượng Giải hạ An viên tịch.
Chứng minh lễ tưởng niệm có sự quang lâm của Hoà Thượng Thích Hạnh Lạc, Hoà Thượng Thích Huệ Đạt, Hoà Thượng Thích Trí Thắng - đồng Thành Viên HĐCM Trung ương GHPGVN; Hoà Thượng Thích Thông Hội - UV Hội Đồng Trị sự, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Quảng Ngãi, Đại Đức Thích Thông Huy - UV Hội Đồng Trị sự, Phó Ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Quảng Ngãi, cùng chư tôn đức TT Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Quảng Ngãi, Chư tôn đức TT Ban Trị sự các huyện, Thị xã, và trụ trì các tự viện trong toàn tỉnh cùng môn đồ đệ tử và phật tử Tổ đình Từ Quang đồng tham dự.
Tại buổi lễ trong không khí trang nghiêm, chư tôn đức đã thành kính dâng hương tưởng niệm , tri ân công đức cố Đại lão Hoà Thượng Thích Giải An, vị giáo phẩm có những đóng góp đặc biệt cho Phật giáo Tỉnh Quảng Ngãi.
Theo đó Hòa thượng: Thích Giải An, thế danh: Nguyễn Hòa (Nguyễn Giải An), Pháp danh: Như Bình, Đạo Hiệu: Huyền Tịnh. Ngài sinh ngày 23/7/1914 (tức 01/06 Giáp Dần), Phật lịch 2458, tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Như thế Ngài thuộc hệ truyền thừa Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài nhập chúng tu học tại chùa Bích Liên, dưới sự giáo thọ của Hòa thượng Chơn Giám - Đạo Quang, đương kim chủ bút tờ báo Từ Bi Âm, xin y chỉ và được Hòa thượng ban cho đạo hiệu Huyền Tịnh.
Năm 1940, du hóa Nam phương, cùng Hòa thượng Bích Liên hoằng hóa Phật pháp ở các tỉnh miền Nam như Bà Rịa, Trà Ôn, Bến Tre.
Năm 1944, trở về Quảng Ngãi nhận trú trị cổ tự danh thắng Thiên Bút.
Năm 1945, Ngài tham gia Phật giáo Cứu Quốc thuộc Liên khu .
Năm 1950, Ngài lại tiếp tục du phương cầu học tại các Phật học đường Báo Quốc, Linh Quang của Phật giáo Huế.
Năm 1951, Ngài tham học tại miền Bắc.
Năm 1953, Ngài trở về Quảng Ngãi, khai sơn chùa Linh Sơn tại đèo Eo Gió, huyện Nghĩa Hành. Sau đó, Ngài khai sơn chùa Phú Long tức chùa Phú Văn ngày nay.
Năm 1954 (Giáp Ngọ), Ngài trụ trì chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng.
Năm 1955-1957, Ngài cùng chư vị Tôn túc Tăng-già Quảng Ngải, thành lập Giáo hội Tăng già và Hội Phật học tỉnh Quảng Ngãi sinh hoạt tại chùa Hội Phước. Hòa thượng liên tục mấy nhiệm kỳ làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già và kiêm nhiệm Hội trưởng Hội Phật học Quảng Ngãi.
Năm 1957 (Định Dậu), Ngài chính thức trụ trì chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi, kiêm nhiệm các chức vụ Hội trưởng, Hội phó Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi. Ngãi đã cùng Ban trị sự khởi công xây cất chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi, nay là Văn phòng của Ban trị sự.
Năm 1963, với cuộc đấu tranh chống chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, Ngài là người lãnh đạo Tăng Tín đồ Quảng Ngãi trực diện đấu tranh xuyên suốt phong trào cho đến ngày thành công mỹ mãn.
Năm 1964, Ngài là thành viên của Hội đồng TW GHPGVNTN, cũng là năm Ngài khai sơn Thọ Sơn tịnh thất tại xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1966, Hòa thượng là chứng minh đạo sư của GHPGVNTN Quảng Ngãi và nhập thất trì tụng kinh Pháp Hoa, phát tâm mỗi chữ lạy một lạy.
Năm 1967 (Đinh Mùi), Ngài khai sơn chùa Từ Quang, khối V, phường Nghĩa Lộ, Quảng Ngãi. Đây là trụ xứ Ngài thường trụ cho đến ngày viên tịch.
Năm 1969, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Vạn Hạnh, tổ chức tại chùa Từ Hiếu, Thừa Thiên Huế.
Năm 1970, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Vĩnh Gia, tổ chức tại chùa Phổ Đà, Đà Nẵng (từ 17-21/10/1970).
Năm 1973, Hòa thượng làm Tôn chứng Đại giới đàn Phước Huệ, Bình Định.
Năm 1989, Ngài làm Đường đầu Đại giới đàn Nguyên Thiều, tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn, Bình Định.
Suốt một đời “Chung thân dĩ pháp vi gia”, Ngài là bổn sư truyền thụ Tam quy Ngũ giới cho hàng đệ tử cư sĩ tại gia trong và ngoài tỉnh.
Suốt cả một đời của bậc Đống Lương Phật pháp, Ngài đã đem lòng từ bi thu nhận rất nhiều đệ tử xuất gia, Tăng Ni số lương hơn 60 vị, hiện nay đã là những trưởng tử của Như Lai.
Một số rất ít đệ tử dù thiếu phước duyên, không tròn như nguyện xuất gia nhưng vẫn nhiệt tâm với lý tưởng phục vụ đạo pháp, dân tộc.
Thuận thế vô thường, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, Hòa thượng an nhiên viên tịch tại chùa Từ Quang vào lúc 03 giờ 15 phút, ngày 20 tháng Giêng năm Quý Mùi, nhằm ngày 20/02/2003.
Hòa thượng trụ thế 90 năm, 70 hạ lạp.
Phật giáo Việt Nam từ nay vĩnh viễn vắng bóng một bậc tổ sư lương đống, nhưng mãi còn đây hương thơm đạo đức và oai nghi thánh hạnh của Ngài, như Cố Đại lão Hòa thượng Thích Kế Châu, pháp hữu của Ngài đã từng đề tặng:
Mích vô sở đắc giải an tâm
Hà luận cao đê thiển phục thâm
Tánh hải như bình trừng diệu trạm
Từ Quang chiếu triệt chấn trào âm.
(Tâm an được cái không câu
Thấp cao không luận nông sâu miễn bàn
Lắng trong biển tánh huy hoàng
Từ quang chiếu rọi dậy vang âm triều.)
Từ nay huyễn thân Ngài đã trở về với tứ đại. Nhưng hình ảnh cuộc đời Ngài, với đạo phong và giới đức thanh tịnh, mãi mãi là tấm gương chói sáng cho Tăng, Tín đồ quy ngưỡng.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế Khai Sơn Từ Quang Đường Thượng Húy Thượng NHƯ Hạ BÌNH Tự GIẢI AN Hiệu HUYỀN TỊNH Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.
Ban TTTT huyện Bình Chánh